Bộ Cá sấu là một bộ thuộc
lớp Mặt thằn lằn (Sauropsida) hay theo các phân loại truyền thống thì thuộc
lớp Bò sát (Reptilia), xuất hiện từ khoảng 84 triệu năm trước, vào cuối
kỷ Phấn trắng (Cretaceous,
tầng Champagne). Bộ này là họ hàng gần gũi nhất còn sinh tồn của các loài
chim, do hai nhóm là các thành viên duy nhất còn sống sót đã biết của nhóm
Archosauria[1]. Các thành viên của
nhóm thân cây dạng cá sấu, nhánh gọi là
Crurotarsi, đã xuất hiện khoảng 220 triệu năm trước trong
kỷ Trias và có sự đa dạng lớn về các dạng trong thời kỳ
đại Trung sinh.Tên khoa học của bộ này thường cũng hay được viết thành 'Crocodylia' để phù hợp với chi điển hình
Crocodylus (
Laurenti, 1768). Tuy nhiên,
Richard Owen đã sử dụng -i- khi ông công bố tên gọi này năm 1842, vì thế trong các văn bản khoa học nói chung nó được viết thành Crocodilia. Cách viết dùng -i- cũng là sự
La tinh hóa chính xác hơn của từ κροκόδειλος (crocodeilos, nghĩa đen là "giun sỏi cuội", nói tới cấu tạo và hình dáng của nhóm động vật này) trong
tiếng Hy Lạp.Thuật ngữ
cá sấu trong tiếng Việt bao gồm các dạng
cá sấu đích thực,
cá sấu mõm ngắn và
cá sấu mõm dài. Tuy nhiên, nó cũng được áp dụng để chỉ các họ hàng xa thời tiền sử của chúng, chẳng hạn như "
cá sấu biển" (Thalattosuchia).